“Nếu mảnh đất dưới chân tôi gọi là tiên cảnh thì Alhambra là gì đây? Thiên đường ?”
Lope De Vega (nhà văn Tây Ban Nha thế kỷ 16)
Bây giờ nghĩ lại, hành trình đến “cổng thiên đường” của tôi bắt đầu từ những nguyên nhân rất đời thường. Tôi quả thực đến Granada (Tây Ban Nha) để thăm Alhambra vì đã đọc đâu đó rằng đây thu hút lượng khách tham quan hàng đầu trong nhiều di tích lịch sử rất nổi tiếng ở Tây Ban Nha. Ý tưởng hình thành chuyến đi chắc còn bị kích động bởi việc phải đăng ký vé tham quan trước nhiều tuần dù Granada chỉ là thành phố nhò trong gốc khuất gần Địa Trung hải… Nhưng nguyên nhân chính phải là vì bộ phim Alhambra với diễn viên Hàn Quốc điển trai Hyun Bin vốn làm mưa làm gió trong lòng người hâm mộ nhiều tháng trước.
Nhưng khi vừa đặt chân đến Granada, nhìn toàn cảnh thành phố từ cửa sổ khách sạn, tôi mới bắt đầu cảm nhận sức cuốn hút của pháo đài Alhambra. Trong đêm, Alhambra tọa lạc ngay đỉnh một ngọn đồi giữa thành phố, nổi lên với nền màu đèn vàng huyễn hoặc. Và kể từ đó đến khi rời khỏi thành phố cảm xúc của tôi cứ bị “tung hứng” lúc nhẹ nhàng, lúc mãnh liệt, lúc thỏa mãn, lúc trầm u…
Không biết ai khéo tạo con đường dóc nhỏ bé ngoằn ngoèo 2 cây số từ Plaza Nueva, quảng trường ở trung tâm Granada, dẫn lên Alhambra. Bất cứ ai khi bắt đầu rảo bước vào đầu đường chắc luôn mang trong lòng niềm hứng khởi được đến với một kỳ quan kiến trúc. Nhưng con đường dóc với nhiều ngõ rẻ quanh co như cố trì kéo bước chân lữ khách để bắt họ phải rảo mắt nhìn xung quanh và niềm hứng khởi bắt đầu chuyển biến thành những suy nghĩ hoài niệm xa xôi. Những viên đá nằm dưới tán cây, những ngôi nhà cổ vài trăm năm tuổi san sát nhau mang phong cách Tây Ban Nha cổ điển sinh động, vẫn không át được đâu đó như phảng phất tiếng thở dài của người Moor (tên gọi của người hồi giáo trên vùng đất bán đảo Iberia).
Người Hồi giáo từ Bắc Phi đã xâm chiếm khu vực này từ khoảng thế kỷ thứ 6. Vào thời kỳ đỉnh cao phát triển, các vương quốc Hồi giáo đã chiếm một diện tích lớn trên bán đảo Iberia (Tây ban Nha và Bồ Đào Nha ngày nay). Một lối sống Hồi giáo pha trộn bản sắc địa phương đã tạo nên một nền văn minh đặc trưng rực rở của cộng đồng người Moor. Granada thời ấy trở thành một trong những thành phố quan trọng nhất trong khu vực. Alhambra (có nghĩa là thành trì màu đỏ) đã ra đời vào thời điểm này. Thoạt đầu đó là một thành nhỏ, sau lớn dần qua năm tháng để trở thành pháo đài. Rồi khoảng giữa thế kỷ 13 quốc vương Mohammed ibn Yusu đã cho tiến hành xây kiệt tác quần thể cung điện Nasrid để làm nơi ở của gia đình hoàng tộc và cũng là nơi làm việc của bộ máy Nhà Nước.
Lịch sử chép rằng công cuộc chinh phục bán đảo Iberia (Tây Ban Nha) của người Hồi giáo để dựng xây và khẳng định dấu ấn như một nền văn minh lớn ở Châu Âu đã trải qua nhiều năm tháng thắm đượm mồ hôi, nước mắt và máu. Và rồi sự lụi tàn của cộng đồng người Moor trước đợt phản công của văn minh Thiên chúa Giáo cũng thắm đầy những bạo lực và đắng cay.
Vương quốc hồi giáo này cứ thu hẹp dần. Có nhiều áng thơ khóc than cho sự tàn lụi và trong đó từ lập đi lập lại nhiều nhất vẫn là Granada- Alhambra…. Tại sao cứ phải là như vậy? Bởi Granada là cứ điểm cuối cùng của nên văn minh bị vùi dập đó và kiệt tác pháo đài- cung điện Alhambra là cứ điểm cuối cùng của Granada…
Tôi bước vào cổng với tấm vé trị giá 15 euro phải mua trước vài tuần, bên trên có ghi tên tuổi và số hộ chiếu của người mua cùng với ngày giờ tham quan được ấn định trước. Người soát vé kiểm tra và đưa cho tôi tấm bản đồ hướng dẫn cách đi bởi Alhambra là quần thể khổng lồ với tổng diện tích hơn 140 ngàn mét vuông. Bên trong quần thể này có những công trình quan trọng như: thành Alcazaba, cung điện Nasrid, cung điện Charles V, vườn Generalife…
Tuyệt tác chính là cung điện Nasrid với kiến trúc Hồi giáo điển hình. Bên trong, những bức phù điêu trang trí trừu tượng đầy dãy xung quanh các tòa nhà Sư tử, tòa nhà Đại sứ, sân vườn Lindaja… đủ sức cạnh trang với bất kỳ công trình mỹ thuật Hồi giáo nổi tiếng nào trên thế giới. Những vạch thẳng ngang dọc, những đường cong lên xuống trên nền màu vàng nhạt đặc trưng lúc nghiêng về sắc lục, lúc sắc đỏ đủ làm mọi người quên đi nổi bực dọc vì phải xếp hàng chở đợi để được vào đây, đủ làm mọi ngươi dễ tha thứ cho hàng đoàn du khách chen chúc hối thúc sau lưng để lựa một góc ảnh ưng ý. Hòa lẫn vào những đường nét trang trí là vô số những bài thơ ca ngợi Alhambra được trình bày khéo léo, tất cả tạo ra một không gian siêu thực.

Nếu Nasrid là trời, thì Generalife bên cạnh là nấc thang để bước từ thiên đường xuống hạ giới. Tất nhiên, Generalife là khu vườn rất đẹp, nhiều cây xanh, hoa trái bố trì hài hòa.. Nhưng cái đặc biệt của Generalife là nắm trên đỉnh đồi cáo mà từ đó có thê nhìn xuống toàn bộ thành phố bên dưới với đầy đủ bức tranh trần tục: hạnh phúc, ngọt ngào, đắng cay, đau khổ. Nếu đến đây đừng vội vã, hãy ngồi lại mà ngẫm việc đời.
Điểm đến sau Generalife nhất định phải là thành Alcazaba. Chỉ là những tường đá khổng lồ còn xót lại, nhưng chắc rằng ai đứng trên đó cũng dễ liên tưởng đến những thanh kiếm vung lên, đến cảnh đầu rơi, máu chảy… Cũng là điều tự nhiên thôi khi thiên đường nào cũng có sự thèm khát và tranh giành. Và đã là tranh giành thì có người được kẻ thua. Hôm nay ta là người thắng trận, ngày mai ta sẽ bị diệt vong. Nếu ai còn mơ hồ cho suy nghi đó thì cứ bước qua cung điện Charles V không xa để chứng kiến minh chứng hùng hồn.
Sau khi đánh đuổi được các quốc vương Hồi giáo Moor, nhiều đời vua theo Thiên Chúa Giáo đã phá bỏ hàng loạt công trình ở Alhambra trong đó có cả một phần tuyệt tác Nasrid để xây các công trình ghi dấu ấn phục hưng Châu Âu. Cung điện Charles V đã ra đời như vậy. Kiến trúc đẹp với sân tròn độc đáo đáng để trầm trồ chiêm ngưỡng. Nhưng sứ mệnh quan trọng nhất mà cung điện mang nặng là kể lại bài học lịch sử về hưng thịnh và suy tàn cho hậu thế. Và tôi tin chắc Charles V đã thành công.
Từ cổng soát vé để đến được các di tích bên trong Alhambra du khách phải đi qua một một con đường ngoằn nghèo ngoạn mục giữa cây cỏ xanh ngát dài cả cây số. Không biết Ban quản lý có ẩn ý gì khi bắt du khách phải đi bộ một quảng đường dài, hoàn toàn có thể là để mọi người có cơ hội hồi tưởng về những con đường mà vua Hồi giáo đã đi khi phải chia tay “thiên đường” của mình.
Lịch sử còn ghi rõ ngày 2 tháng giêng năm 1492, Muhamed XII, vị vua cuối cùng của triều đại Hồi giáo Moor ở bán đảo Iberia đã đầu hàng và chính thức trao Alhambra lại cho quân đội Thiên Chúa giáo. Ngày ấy Muhamed XII ăn mặc chỉnh chu, lên ngựa cùng mẹ mình và đoàn tùy tùng khoảng 100 người đi dạo một vòng để nhìn Alhambra lần cuối. Theo truyền thuyết ông đã nói với đại diện đội quân chiến thắng rằng ”tôi trao cho các ông chiếc chìa khóa vào Thiên đường” và sau đó gạt nước mắt ra đi không một lần quay lại.
Tôi ngồi nghỉ dưới tàn cây lớn trong một góc vắng hiếm hoi của Alhambra với đôi chân mỏi nhừ sau nhiều giờ lang thang và đầu óc lẫn lộn nhiều cảm xúc. Ngước mắt nhìn bầu trời xanh thẳm không gợn chút mây, tôi thoáng buồn cười với cái suy nghĩ phải chăng mình đang ở cánh cổng để lên Thiên đường như Muhamed XII đã nói. Lúc ấy, bất chợt tai nghe giai điệu ghi-ta êm dịu nhưng dữ dội “Hồi ức về Alhambra” (Recuedos de Alhambra) bất tử của Tarrega. Giai điệu từ chiếc máy nghe nhạc của người đàn ông da trắng to béo lững thửng ngang qua với đôi mắt nhìn xa xăm như không cần quan tâm đến ai. Tiếng đàn làm bao nhiêu hồi ức tuổi thơ của tôi kéo về khi lần đầu tôi được nghe khi còn là câu học sinh trung học. Và dường như ở giữa không gian Alhambra này, chỉ cần một tác động nhỏ là bao nhiêu đoạn đời đã qua cứ thế là tự nhiên tràn về, những hỉ nộ ái ố của ước mơ và hành động hòa quyện vào nhau. Tôi chợt hiều rằng không gian kỳ dịu ở Alhambra này đã giúp tôi cũng người đàn ông da trắng lững thững nghe nhạc hay nhà soạn nhạc vĩ đại Tarrega tìm thấy cánh cổng thiên đường của chính tâm hồn mình.
Một ngày nào đó tôi sẽ quay lại Alhambra để chạm tay vào cánh cổng thiên đường lần nữa… Và bạn?